Jêrônimô HERMOSILLA Liêm, sinh năm 1800 tại S. Domingo de la Calzadar, Tây Ban Nha, Giám Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 01-11-1861 tại Hải Dương dưới đời vua Tự Ðức, phong Chân Phúc ngày 15-4-1906 do Ðức Piô X, kính ngày 01-11.
Các vị thừa sai đặt cho Giám Mục Hermosilla biệt danh là Ðức Cha Già, rường cột giáo hội tại Bắc Kỳ. Thật vậy trong ba mươi hai năm truyền giáo, Ðức Cha Hermosilla đã chứng kiến những cơn bách hại giáo hội thời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Ðức. Ngài đến Việt Nam như một vị tiên tri: khi vừa trông thấy ngài lần đầu tiên, Ðức Cha Inhaxiô Delgado đã gọi ngay: "Ông Vọng, ông Vọng". Bởi vì giữa lúc bắt đạo mọi người mong có thừa sai đến tiếp nối. Thế nhưng vua quan ra bao nhiêu lệnh lùng bắt "Danh Trùm Vọng" với giá thưởng 10.000 quan tiền, và nếu là quan bắt được ngài thì sẽ được thăng cấp. Ðức Cha Vọng đã trốn thoát nhiều cuộc vây bắt lạ lùng cho đến thời giờ Chúa định vào kỳ phân sáp 1861 là kỳ bắt đạo chót ngài mới bị bắt.
Ðức Cha Hermosilla sinh ngày 30-9-1800 tại Domingo de Calzada bên Tây Ban Nha. Ngay từ nhỏ ngài đã được ở trong Tòa Giám Mục. Năm 15 tuổi, ngài đến học trong tu viện dòng Ða Minh. Khi có cuộc nội chiến, Thầy Hermosilla phải gia nhập lính. Sau đó thầy trở lại nhà dòng và được khấn dòng ngày 29-10-1823. Vị tu sĩ trẻ đầy lòng hăng hái xin đi truyền giáo nhưng phải chờ mãi đến tháng 10-1828 mới được lệnh sang Viễn Ðông.
Sau nhiều nguy hiểm trên biển, lội bộ trong rừng hay đi cáng suốt đêm, ngày 15-5-1829, Cha Hermosilla đến được nơi trú ẩn của Cha Amandi tại Trung Linh. Ðã nhiều năm các cha Ða Minh ngóng chờ vị thừa sai mới, vì thế khi được Cha Hermosilla, họ liền đặt tên cho ngài là Vọng, theo nghĩa Ðại hạn vọng vân nghê. Cha học tiếng Việt, lối sống khắc khổ và mánh khóe của các quan. Sau khi Cha Amandi kiệt sức chết, Cha Hermosilla được chỉ định làm bề trên và cố chính của địa phận.
Vì bị triều đình biết tên và quan quân lùng bắt, Cha Vọng phải đổi tên là Liêm, lén lút chỗ này chỗ kia. Rất nhiều lần thoát tay kẻ dữ cách lạ. Một hôm quan lính vây nhà ngài trú ẩn ở Xuân Sơn, lính xục sạo vào cả trong hầm ngài trú, thấy ngài rồi nhưng bỏ ra hối các lính khác đến bắt. Cha Hermosilla vẫn ngồi im nhủ thầm: "Xin vâng theo thánh ý Chúa". Lính vào trong hầm mà như mù không thấy gì cả, ra ngoài bắt được một người già rậm râu thôi.
Một lần khác, Trịnh Quang Khanh sai 800 lính và dân làng đem thuyền đuổi theo thuyền của Cha Hermosilla đang chạy trốn, lạ thay gió thổi ngược trở lại làm cho hai thuyền lớn đắm, 12 thuyền nhỏ trôi ngược trở lại. Sấm sét tiếp tục khiến chết ba ngàn người.
Ngày 18-1-1839, Vua Minh Mệnh còn ra chỉ dụ lùng bắt Cha Hermosilla như sau: "Còn một Danh Trùm Vọng đạo trưởng chưa bắt được và hãy còn ẩn náu ở Bắc Kỳ. Vậy ai bắt được, nếu là quan hay dân đều được thưởng 10.000 quan tiền. Ðây là hình dong để nhận diện: người thì cao lớn vừa phải, mũi dài, râu rậm, con mắt tinh hơi xam xám, sắc trắng trẻo mặt mũi béo tốt. Ðó là Danh Trùm Vọng, tiếng Tây gọi là Hieronimo. Nếu quan bắt được thì sẽ thăng cấp, người chứa chấp phải chịu tội, quan bản hạt cũng phải liên lụy".
Ngày 25-4-1839 ngài viết một lá thư rất dài để tường trình về cuộc tử đạo của 16 vị tử đạo của địa phận Ðông và kể tình cảnh giáo hội An Nam hầu như tan nát. Riêng tại địa phận Ðông Bắc Việt gần 1.000 nhà nguyện lớn nhỏ phải tháo gỡ, sách vở chôn sâu lâu ngày bị mục, hai chủng viện chứa 70 học sinh cũng phải phá đi, 23 nhà dòng nữ cũng vậy. Trong thời kỳ bắt đạo năm 1838 chỉ còn hai thừa sai khác các quan không biết là Cha Jimeno Lâm tới năm 1836 và Cha Marti Gia đến tháng 6-1838.
Trước hoàn cảnh đáng thương của giáo hội Việt Nam, Ðức Thánh Cha Grêgôriô XVI đã gửi thư an ủi và họp mật nghị Hồng Y để tuyên dương các vị tử đạo, xin thế giới cầu nguyện cho tín hữu Việt Nam. Ðức Thánh Cha cũng đặt Cha Hermosilla làm Giám Mục coi sóc địa phận Ðông. Lúc bấy giờ hai Ðức Cha Delgado và Henares đã bị xử tử, Ðức Cha Havard đã chết trong rừng Bạch Bát, vì thế toàn Bắc Việt không còn Ðức Cha nào cả. Cha Retord phải đi đường bộ sang Macao rồi sang Phi Luật Tân thụ phong. Khi trở về vừa đúng lúc Minh Mệnh chết năm 1841, tuy nhiên Trịnh Quang Khanh vẫn còn lùng bắt thừa sai dữ tợn. Cha Hermosilla phải hóa trang làm một người dắt ngựa, chân bôi đen và đội nón che mặt, đi theo ông chánh tổng sang Ninh Bình nơi Ðức Cha Retord đang trốn tránh để thụ phong. Ngài được phong chức ngày 2-5-1841. Trở về địa phận, Ðức Cha Hermosilla liền truyền chức cho Cha Jimeno làm Giám Mục phụ tá ngày 29-6-1841 tại Cao Xá, và bẩy linh mục mới.
Dưới thời Thiệu Trị, công việc bắt đạo giảm đi, Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh, nhờ thế Ðức Cha đã có thể đi thăm các giáo đoàn, xây dựng lại giáo hội. Khi Thiệu Trị chết năm 1847, Ðức Cha phó Jimeno được chỉ định về làm Giám Mục coi sóc ở Manila nên Ðức Cha Hermosilla Liêm họp các cha và chọn Cha Marti làm Giám Mục, tấn phong ngày 29-6-1847 tại Nam Am. Cũng trong thời kỳ này Ðức Giáo Hoàng Pio IX chia địa phận mới gọi là Trung gồm tỉnh Nam Ðịnh và Hưng Yên. Ngày 23-3-1849 Ðức Cha Hermosilla Liêm họp các cha ở Ðông Xuyên để phân chia địa phận, chọn các đức cha phụ tá, và cha chính mới. Kết quả Ðức Cha Marti Gia làm Giám Mục chính địa phận Trung (Bùi Chu), Ðức Cha Sanjurjo An làm phó, Cha Checa làm cha chính. Còn địa phận Ðông (sau gọi là Hải Phòng) Ðức Cha Alcazar làm phó, Cha Masso làm cha chính. Hai đức cha mới được tấn phong ngày 5-4-1849, Chúa Nhật Phục Sinh.
Bắt đầu từ năm 1854, Tự Ðức cấm đạo ngặt hơn, cuộc sống của các thừa sai thu hẹp lại trong các hầm trú ẩn hay lênh đênh nay đây mai đó trên các dòng sông. Ðến năm 1858 quân đội Pháp-Tây Ban Nha đến đánh Ðà Nẵng, tình thế trở nên gay go.
Ðức Cha Hermosilla đã viết: "Thật là khủng khiếp, vua và các quan tìm mọi cách để tận diệt đạo Chúa. Mỗi tháng hai ba lần các quan sai lính đến các làng đánh đập tín hữu, ép buộc bỏ đạo. Theo luật chỉ có các linh mục, thầy giảng và người chứa chấp phải tử hình, nên trong nhà tù đầy rẫy những người tín hữu bị giam để họ không thể liên lạc và giúp nhau được nữa..." Ðức Cha Hermosilla triệu tập các thừa sai ở Kẻ Mót để tìm cách cứu vãn giáo hội. Một số thừa sai phải tạm thời ra khỏi nước để khi có cơ hội trở lại, một số khác ở lại củng cố đàn chiên. Theo quyết định, Ðức Cha Hermosilla, Ðức Cha Berri-Ochoa, Cha Rianho, Cha Almato và Cha Fernandez ở lại, còn hai thừa sai khác kiếm cách lên tầu Pháp để về Macao.
Từ khi áp dụng lệnh phân sáp tháng 9-1861, Ðức Cha Hermosilla không còn nơi nào trú đã cùng với thầy giảng Khang đi ẩn trong hang ở Thọ Ðức. Trước khi đi, Ðức Cha đổi tên là Tuấn và viết thư chung cho giáo dân khuyên bảo họ vui lòng theo ý Chúa định cho các vua quan cấm đạo để kẻ lành thêm sốt sắng hơn, kẻ trễ nải biết đường ăn năn. Vua quan có cấm đạo cũng sẽ không cấm đạo mãi vì việc cấm đạo đã xảy ra nhiều trong giáo hội. Ðức cha xin mọi người nhớ Lời Chúa là "Ai xưng Danh Chúa trước mặt người ta, thì sẽ được nhận mặt Chúa Cha". Nhiều người xưng đạo mà vẫn không phải khốn khó, còn nếu sợ khốn khó mà chối đạo, lúc ấy mà chết thì không tránh được sự phán xét công thẳng của Chúa. Hãy trông cậy Chúa giúp sức và xem gương Chúa đã chịu chết vì chúng ta...
Vì ở trong hang tức hơi không chịu được, Ðức Cha Hermosilla Tuấn nhờ người đánh cá chèo thuyền qua cửa tỉnh Hải Dương đến ở thuyền ông Trưởng Bính. Sau Ðức Cha Berri-Ochoa, Cha Almato từ Kẻ Nê và Kẻ Na cũng tới. Ba thuyền họp lại với nhau. Chẳng may con người thuyền chài tức mình với cha mẹ liền đi tố cáo có ba đạo trưởng Âu Châu. Ngày 21-10-1861 đội Bậng đem lính đến vây bắt. Thầy Khang định lấy sào thuyền để đánh, song Ðức Cha can. Nhờ sự can đảm của Thầy Khang, Ðức Cha Berrio-Ochoa và Cha Almato kịp trốn đi, còn Ðức Cha Hermosilla và Thầy Khang để mặc cho lính trói lại. Khi bị giải về Hải Dương Ðức Cha bị giam vào cũi để ở trong dinh tổng đốc.
Ra trước mặt các quan để chịu hỏi về lý lịch, Ðức Cha đã khai: "Tôi tên là Tuấn, 61 tuổi, sang An Nam đã 33 năm". Về câu hỏi đã đi giảng đạo và trốn tránh ở những đâu, đức cha chỉ trả lời trống là nay đây mai đó và đi rất nhiều nơi giảng đạo Thiên Chúa. Có một lần dù cũi bị khóa và lính canh rất ngặt, thế mà ngài ra khỏi được và đi bách bộ đến tù khuyên bảo bổn đạo, rửa tội cho con ông đội Bái chịu xử vì đạo ngày hôm ấy. Khi thấy đức cha trở lại vào cũi thì quan hỏi đi đâu, đức ctrả lời: "Tôi đi giải trí một chút".
Ngày 1-11-1861, tảng sáng quân lính đem hai đức cha và Cha Almato ra pháp trường Năm Mẫu xử tử. Ðoàn người gồm có 500 lính và ba thớt voi. Các tù nhân bị hành quyết còn thêm con ông đội Bái đã được Ðức Cha Hermosilla rửa tội. Cũi thứ nhất là Cha Almato tay cầm tràng hạt, cũi thứ hai là Ðức Cha Berrio-Ochoa Vinh, chắp tay nguyện ngắm, cũi thứ ba là Ðức Cha Hermosilla ngồi như trên ngai giơ tay ban phép lành. Tất cả ba đấng nét mặt vui tươi mừng rỡ. Ði sau cùng là các quan đi ngựa hay được võng kiệu, tất cả đều có lọng tán chẹ Ðức Cha Hermosilla xin xử tên tù trước để có thể giúp nó chết lành. Quan cho lệnh sao bản án xử và cấm không ai được vào thấm máu. Nhưng khi sau ba tiếng chiêng, đầu các ngài rơi xuống, các quan đi về thì dân chúng đến thấm máu và đem xác các ngài đi chôn. Trong lúc hành quyết có nhiều dấu lạ như trời tối, hương thơm tỏa ra và đàn bướm trắng đến đậu trên xác ba đấng. Riêng đầu ba đấng, ông đề lao bêu ở bến đò Hàn chỉ lính canh giữ trong ba ngày.
Chánh tổng Oánh coi làng Yên Việt vốn có cảm tình với người Công Giáo nên ông báo cho trùm Can biết có muốn chuộc ba đầu thì ông lo liệu cho. Ông trùm Can cùng với chánh tổng xuống tỉnh lo liệụ Ðến nơi, các vị đã thấy có thầy già Thần cùng với chánh tổng sở tại thì mời tất cả vào nhà chánh tổng làm cơm rượu thiết đãi. Lúc ấy lính cũng mang ba đầu vào nhà vì sợ để ở ngoài người ta lấy mất. Trong khi lính ăn uống thì có người đã lấy ba đầu các ngài và thay vào ba củ chuối. Khi trời tối, lính mang sọt đựng ba củ chuối mà vẫn cứ tưởng ba đầu tù nhân đem xuống sông mà vất như lệnh truyền. Chính ông tổng Oánh cởi áo mình bọc ba đầu của các đấng xuống thuyền mà về. Trời tối mà bỗng dưng ánh sáng tỏa ra từ ba đầu của các đấng soi đường cho thuyền đi. Nếu khi có thuyền khác tới thì ánh sáng lại tắt đi. Cứ thế cho tới khi về đến Yên Dật. Ðầu của các ngài được bỏ vào ba nồi đất mới mà chôn trong nhà thờ thánh Gioan ở Yên Dật. Các bà dòng xin cái áo mà ông chánh tổng bọc đầu ba đấng để giữ làm kỷ niệm, nhưng ông chánh không chịu. Khi về nhà, ba đứa con ông lên đậu mùa, ông cho mặc áo của ông đã bọc đầu ba đấng tử vì đạo, tức thì đậu mùa biến đi. Ông đã dùng áo này để chữa lành nhiều bệnh. Những vải thấm máu Ðức Cha Hermosilla, hễ soi ra ánh sáng thì nhìn thấy hình thánh giá.
Nơi xử là Năm Mẫu thì về sau không ai dám chôn nơi các ngài đã xử. Lương dân nói rằng mỗi khi con cái mắc bệnh họ thường ra đó nhổ cỏ sắc nước cho con uống.
Xác các ngài ban đầu phải chôn ngay ở chỗ xử. Khi chôn, người Công Giáo rắc than để làm dấu sau này nhận biết. Dân Công Giáo làng Thọ Ninh và Lai Tê đang bị lệnh phân sáp nên bàn với người không có đạo biết chỗ chôn để đánh dấu. Tối 30 Tết Tân Dậu, không có ai lai vãng, các giáo dân đem thuyền vải vóc đến để đem xác về, nhưng vừa tới cửa Hàn thì gặp thuyền chánh tổng Triệt. Dân cứ thật thưa là giáo dân huyện Lang Tài nghe có ba đấng bị xử là cha mẹ, phải chôn trần thì không an lòng nên đem quan tài lên chôn. Quan chánh tổng đòi 300 quan tiền nhưng dân chỉ có 100 nên ông cũng nhận 100 quan, giữ thuyền và hai người, bắt họ trở về kiếm tiền cho đủ. Ðến mùng ba Tết, đêm ấy chánh tổng Triệt dẫn các ông Lý Ðạt, Cả Nhân, Xã Thụ là người Công Giáo đi lấy xác. Họ đem từng xác xuống, mỗi vị ở một thuyền. Sau đó đem về Thọ Ninh, thời giờ di chuyển chỉ lâu chừng 9 giờ, đó là một chuyện lạ, đáng lẽ phải mất 21 giờ. Những người này còn làm chứng rằng, đêm ấy trời tối đen ở chung quanh nhưng chính tại chỗ thì có ánh sáng từ xác chiếu ra để họ làm việc nhanh chóng. Xác dù đã chôn ba tháng rưỡi vẫn còn nguyên da thịt, không thối tha.
Khi được bình yên, Ðức Cha Alcazar đem đầu của các đấng từ Yên Dật về đặt vào với xác ở Thọ Ninh, còn nồi đựng đầu của các đấng thì trao cho các chị nhà dòng ở Kẻ Mốt. Năm 1881 Ðức Cha Colomer trao xác Ðức Cha Hermosilla cho Ðức Cha Terres, coi địa phận Ðông, và xác ngài được an táng ở nhà thờ Hải Dương, còn đầu được đem về quê quán của ngài.
Năm 1906, Ðức Thánh Cha Pio X phong Chân Phước cho bốn vị, các bề trên địa phận đã lấy đất chính nơi các ngài chịu xử và xây đền kính các thánh tử đạo Hải Dương. Năm 1911 thì xây xong đền và rước xác các ngài vào đền, kỉ niệm đúng 50 năm các ngài tử đạo.
Đã đọc: 1030 |