Gioan Thêophan VÉNARD Ven, sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiers, Pháp, Linh Mục, Hội Thừa Sai Paris, xử trảm ngày 02-02-1861 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Tự Ðức, phong Chân Phúc ngày 11-4-1909 do Ðức Piô X, kính ngày 02-02.
Trong các vị thừa sai người Pháp đổ máu vì đức tin ở Việt Nam nổi tiếng nhất là Cha Thánh Vénard, người anh hùng tử đạo được Thánh Têrêsa Hài Ðồng ngưỡng mộ. Tháng 2-1854 khi Cha Vénard đang ở Hồng Kông chờ bài sai, thì đây bài sai của ngài và cha bạn: "Ðể làm vui các bạn, bề trên đã cho Cha Vénard hạt kim cương Bắc Việt, còn Cha Furet hạt ngọc Tứ Xuyên, Trung Hoa". Hay tin đó, Cha Vénard đã hớn hở báo tin cho người bạn Paziot rằng ngài đi Bắc Việt và bạn hãy sắm sửa hòm đựng xương thánh. Thật vậy Cha Vénard, với óc thi sĩ đã viết về Bắc Việt như sau: "Trong nước Annam, các sắc lệnh tiếp tục ban hành, mỗi năm sản xuất bao nhiêu vị tử đạo, như mùa Xuân rực rỡ những bông hoa và mùa thu trái chín vàng... Tonkin, xứ truyền giáo có con đường ngắn nhất để về trời".
Thánh Théophane Vénard chào đời ngày 21-11-1829 tại Saint Loup Sur Thouet do ông bà Giovanni Vénard và Maria Gueret. Chính cha ngài là thầy dậy đầu tiên. Từ bé ngài đã có chí hướng đi tu làm linh mục nên được giao cho cha sở trông coi dậy Latinh. Sau đó ngài vào chủng viện Doue-Fontaine. Tại đây chú Vénard được tin người mẹ qua đời năm 1843. Học xong Trung Học, chú Vénard vì thông minh nên được đưa vào Ðại Chủng Viện Mortmorillon, địa phận Poitiers để học Triết. Sau khi chịu chức Năm, thầy Vénard được ơn Chúa thúc đẩy xin phép đức cha để gia nhập chủng viện truyền giáo Paris và được chịu chức Linh Mục ngày 5-3-1851, lúc mới 22 tuổi. Ngài được bài sai đi truyền giáo tại Bắc Việt.
Sau nhiều hành trình gian khổ, Cha Vénard đến cửa Cấm ngày 13-7-1854 và được đưa đến chủng viện Vĩnh Trị, nơi ở của Ðức Cha Retord. Vừa nhiệt thành học tiếng Việt vừa theo chân đức cha đi thăm các xứ để học kinh nghiệm, Cha Vénard được chuẩn bị để trở thành viên kim cương của Bắc Việt.
Khi từ giã chị Mélanie, Cha Vénard viết: "Hãy sống trong vui vẻ vì người làm việc cho Chúa luôn có một trái tim thoải mái". Thật vậy, vừa tới nơi Cha Vénard được chứng kiến buổi lễ phong chức thật huy hoàng và trang nghiêm, có lính đồng phục chào 26 vị tiến chức, trong đó 3 linh mục, 5 thầy sáu và 4 thầy năm....
Cuối tháng 8-1854, Cha Vénard được sai đến một trường kẻ giảng ở Kẻ Roãn gần phủ Lý để học tiếng Việt. Cha viết: "Một tháng trôi qua tựa như một giờ vậy". Cha nói tiếng Việt thông thạo, đúng các âm và dấu. Ngài được gọi là cố Phan, lấy vần cuối của tên thánh của ngài, với ý nghĩa tiến lên, và cũng là tên dòng họ thông thường. Chúa Nhật thứ hai của tháng 10 cha đã có thể giảng bằng tiếng Việt cho giáo dân trong thánh lễ.
Từ đây cha bắt đầu sống thực sự cuộc đời truyền giáo, kiếp sống của một con chim đậu trên cành, luôn sẵn sàng ra đi... chạy trốn. Tháng 1-1855 cha bắt đầu nếm mùi bệnh tật đến nỗi phải xức dầu. Lúc ngài khỏe lại cũng là thời gian bắt đạo, ngài được sai về Bút Ðông, ẩn trốn trong nhà dòng. Một buổi đêm vọng lễ Mẹ Lên Trời, Cha Phan xuống thuyền về thăm đức cha. Gặp lại đức cha, ngài hỏi Cha Phan ngay: "Cha đã sẵn sàng chia sẻ, lấy khổ cực làm phần gia nghiệp chưa?" Ðể trả lời, Cha Vénard quyết định đổi tên là Ven, nghĩa là vẹn toàn và cũng là chữ đầu của tên ngài. Và cũng từ đây cha bước vào con đường núi sọ của giáo hội Việt Nam.
Tổng đốc Nguyễn Ðình Tân, còn có tên là Hưng, ngày xưa thọ ơn Cha Tịnh chữa mắt cho sáng nên ông thường bao che cho chủng viện Vĩnh Trị nơi Cha Tịnh cai quản, nhưng từ khi người Pháp đến gây hấn tại Cửa Hàn, tổng đốc Nguyễn Ðình Tân bắt đầu thay đổi thái độ, ông trở thành đồ tể giết hại các tín hữu. Sắc lệnh 18-9-1855 đã phá tan chủng viện Vĩnh Trị và đội mũ tử đạo cho Cha Tịnh. Cha Vénard được lệnh trốn và coi sóc chủng viện Hoàng Nguyên. Tháng 5-1858 thư của cha gửi đi bị bắt, vì thế Hoàng Nguyên bị vây và cha phải trốn lên Kẻ Non, rồi Bút Ðông. Ngài lợi dụng thời gian "cầm tù" ở nhà dòng Mến Thánh Giá để huấn luyện tinh thần cho các chị dòng và dịch sách. Từ năm 1860 cha phải thay đổi chỗ ở luôn, sống trong những căn hầm trú đào sẵn sâu dưới đất và bên cạnh một con sông hay bờ bể, có ba ống tre thông hơi.
Ông xã Ký người làng Bút Ðông thuật lại việc đào hầm và ba lần quan lính đến lùng kiếm thừa sai như sau: "Thầy Lượng và tôi đã đào một cái hang trong buồng nhà tôi, rộng non một gian nhà, cao vừa bằng một người đứng, dưới thì lát gạch, trên thì lát ván, đoạn đổ một thước đất trên ván và lấy lửa hơ cho ra đất cũ kẻo quan sinh nghi... Chúng tôi cũng lập bàn thờ để các đấng làm lễ và làm tám cái hốc đặt ống tre dài thò ra ngoài bờ ao để có khí thở. Ở đầu buồng chúng tôi làm vách kép để trốn khi cần kíp". Tại Bút Ðông các nhà ông xã Ký, nhà ông Hộ, nhà ông Ðiêng, nhà cụ cố Cha Tuyên, nhà bà Tránh đều có hang và vách kép. Như thế một thời gian lâu dài Cha Vénard, Cha Theurel ẩn trốn ở làng này. Chắc chắn có một người Công Giáo đã đi tố giác với quan nên làng bị khám xét ba lần, nội bất xuất ngoại bất nhập. Lính đi từng nhà cầm dùi xâm đất và xâm tường vách. Các thừa sai thoát nạn là một phép lạ như thư Cha Vénard viết: "Âu là Ðức Chúa Trời không cho nó bắt thì nó không bắt được mà thôi".
Cố Ven (Phan) còn kể công của ông cai tổng Tấn, người Phúc Châu, không phải là người Công Giáo nhưng bênh vực các thừa sai, đã cứu chữa các ngài. Khi quan lính đi vây làng Bút Ðông, ông cai Tấn tình nguyện mang lính đi lùng kiếm giúp, và khi được mật báo là tại nhà ông Hộ có các thừa sai đang ẩn, ông cai Tấn liền đem lính đến nhà ông Hộ ngồi canh giữ, để nếu lính nhà quan đến hỏi thì ông trả lời đã khám xét kỹ mà không có tây giang đạo trưởng nào. Sau đó ông cai Tấn đem các cha về làng của mình là Phúc Châu, toàn là người ngoại đạo để các cha được yên.
Trong một lá thư khác, cố Ven ca ngợi nhân đức của các giáo dân Hà Nội vì đã giúp các cha thoát nạn, trong khi Kẻ Vĩnh ở Nam Ðịnh bị tiêu hủy hoàn toàn. Cha nói: "Giáo dân Hà Nội chưa có mấy người tử vì đạo, điều ấy không phải vì bổn đạo, nhưng chỉ vì các quan Hà Nội có lòng thương dân, không bắt đạo ngặt quá mà thôi". Có lần quan huyện đến làng để bắt dân chúng bỏ đạo, các thừa sai đe rằng nếu các huynh thứ trong làng quá khóa thì các cha sẽ ra nộp mình. Nhờ thế cả làng từ lớn đến bé ra đình xưng đạo trước mặt quan huyện, chịu đánh đập rồi cũng được tha. Thật là một điều đặc biệt, cả làng xưng đạo và cả làng vẫn được an toàn.
Từ khi Pháp đem quân đánh Cửa Hàn năm 1858 thì việc bắt đạo trở nên gay go, mọi người lo sợ, lương giáo không ai dám chứa chấp các thừa sai nữa. Thêm vào đó vua Tự Ðức ra các chỉ dụ bắt giam tới hai ngàn đầu mục, bắt quan và lính có đạo, bắt các chị nhà dòng xưa nay hay đưa thư giao dịch.
Dù vậy các thừa sai khi có thể vẫn đi thăm các giáo dân, ban bí tích để củng cố đức tin, quen gọi là đi làm phúc. Chính vì thế mà Cha Vénard bị bắt ở làng Kẻ Bèo. Cha Ven thuật lại: "Giáo dân vì muốn tránh khỏi bị ép buộc đạp ảnh đã chạy hết ra đồng ruộng để ẩn núp, nửa người ngâm dưới nước bùn... Thật là thảm thương, chỉ có những người trái tim ra chai đá mới không xúc cảm trước những khổ sở của họ... Con thuyền giáo hội Annam hầu như chìm dần, giống như giáo hội Nhật Bản trước kia. Phải có một phép lạ mới mong phục sinh lại được. Chúng tôi đã từ biệt nhau chúc lời mạnh sức tử đạo trên đường lẩn trốn. Chúng tôi có nhiều cơ may để đổ máu ra vì danh Chúa Cứu Thế".
Thật vậy, ngày 30-11-1860 cai Ðô đến Ðông Bào thu thuế với khoảng 20 người lính đã bắt được cố Ven tại nhà bà góa Cân. Sau khi chú giúp việc bị bắt, các bức vách bị đâm chọc, Cha Ven đã phải ra nộp mình, bên trong áo còn giấu một cuốn sách nguyện, bên cạnh là một gậy tre có nhiều sợi giây đầu buộc chì, đó là giây đánh tội của ngài. Cha Ven và thầy Khang bị bắt giải về phủ Lý rồi về Hà Nội.
Quan coi phủ Lý là một người hiền hậu, làm xích và gông rất nhẹ. Trong tờ khai bắt đạo trưởng, quan thường phải ghi rõ nơi bắt được nên gặng hỏi Cha Ven ở đâu, Cha Ven đáp: "Tôi đến nước này để giảng đạo Công Giáo. Tôi đi khắp nơi, rất nhiều làng xã, nhưng không có chỗ ở nhất định. Tôi không kê khai những nơi đã đi vì quan muốn đánh đập những người đã chứa chấp tôi nên tôi sẽ không khai tên ai cả..."
Nhiều người hiếu kỳ đến xem mặt "người quỉ trắng" xinh đẹp và đặt ra những câu hỏi tò mò. Một ông ký lục đến hỏi Cha Ven có bực bội vì dân chúng đến không, Cha Ven vừa cười vừa nói: "Tôi không buồn gì mà trái lại vui là khác".
Ðoạn cha cất tiêng nói to với đám người đứng xung quanh: "Anh em Việt Nam yêu quí của tôi, anh em hãy biết rằng tôi rời bỏ quê hương đến đây để tìm gặp anh em. Chính vì thế đám đông anh em đến đây làm tôi tràn ngập niềm vui".
Trong số những người đứng đó cũng có những giáo dân vì không chịu đạp ảnh bị bắt đến đó làm tạp dịch, đã rón rén thưa với vị linh mục: "Thưa Cha". Thế rồi họ sốt sắng xưng tội và vui sướng tràn ngập tâm hồn.
Tại Phủ Lý hai ngày, Cha Ven viết một lá thư về nhà đề ngày 3-12, cha cho biết ngày hôm sau sẽ bị giải về Hà Nội. Thế là cha ở giữa chiến trường xưng đức tin. Thiên Chúa dùng những người bé nhỏ để làm hoang mang những người vị vọng. Nhưng chính lúc này cha đẻ của ngài đã qua đời mà ngài không hay. Trên đường về Hà Nội, quan bắt dân phu các tổng trên đường cử người khiêng tù binh. Một người Công Giáo đã được chọn và mang một lá thư của Ðức Cha Theurel, bạn đồng hành của Cha Ven. Sau cùng Cha Ven được dẫn giải tới Hà Nội đi vào cửa Tây. Tại đây có đặt thánh giá trên cầu vào thành, cha yêu cầu họ cất đi nhưng họ không chịu, Cha Ven phải vẫy vùng cho cũi ngả nghiêng khiến họ buộc lòng phải nhấc thánh giá lên.
Trưa hôm 5-12-1860, đoàn người vừa vào trong thành thì quan án đã thẩm vấn thừa sai Âu Châu ngay. Trong các câu hỏi quan lộn lẫn giữa việc đạo và việc chính trị để tìm sơ hở kết tội cha làm loạn, chịu trách nhiệm về việc người Pháp-Tây đến đánh Cửa Hàn. Theo thư gửi gia đình hôm 2-1-1861, cha đã thuật lại cuộc thẩm vấn và các lời khai của ngài. Cha không khai tên Việt là Ven mà dùng đúng tên Pháp. Cha nhấn mạnh rằng cha đến với mục đích duy nhất để giảng đạo thật cho những người chưa biết, và vì vậy mà bị bắt và bị nộp cho quan. Không phải quan hay vua nước Pháp sai đến, song là mệnh lệnh của Vua Trời Ðất đi giảng đạo cho lương dân. Về lời tố cáo của quan tỉnh Nam Ðịnh gửi đến cho rằng Ðức Cha Liêu (Retord) xúi dân làm loạn, Cha Ven cực lực bác bỏ: "Tôi làm chứng rằng điều đó hoàn toàn là vu cáo. Ðức Cha Liêu khôn ngoan đủ để không làm điều xằng bậy như vậy. Chính tôi đã đọc thư chung của Ðức Cha Liêu cấm người tín hữu theo những người nổi loạn, và ngài sẵn sàng chết ngàn lần hơn là vấy máu vào việc nghịch".
Cha Ven còn cho quan biết Ðức Cha Liêu đã chết ở Ninh Bình.
Cuộc thẩm vấn của quan án bỗng ngưng và mọi người đứng lên vì có lời thông báo quan tổng đốc Hoàng Văn Thu đến. Vị quan hiền hòa này nói ngay: "Ông đây là vị lãnh đạo người Công Giáo, tướng mạo thật đặc biệt. Ngươi biết luật lệ Annam cấm các người Âu Châu đến, sao còn dám lén vào. Chính các ngươi đã xúi dục lính Pháp đến gây chiến. Hãy nói cho thật nếu không ta sẽ cho tra tấn".
- "Thưa quan lớn, quan hỏi tôi hai điều. Ðiều thứ nhất tôi xin thưa: Tôi được vua Trời Ðất sai đến giảng đạo cho người chưa biết ở bất cứ nơi nào hay quốc gia nào. Chúng tôi tôn trọng mọi luật pháp quốc gia đồng thời chúng tôi cũng tôn trọng luật của Vua Trời Ðất. Về câu hỏi thứ hai, tôi khẳng định rằng tôi không hề xúi dục người Châu Âu đến gây chiến ở Annam".
Quan dụ dỗ: "Vậy ngươi hãy đi thuyết phục họ lui quân, ta sẽ tha cho".
- "Thưa quan lớn, tôi không có tí thế giá nào để làm việc đó, nếu như hoàng đế truyền lệnh, tôi cũng đi nhưng chắc là không đạt được mục đích, tôi trở về vẫn phải chết".
- "Ngươi có sợ chết không?"
- "Thưa quan, tôi không bao giờ sợ chết, tôi đến đây để giảng đạo thật, tôi không làm điều gì lỗi đáng phải chết cả, nhưng nếu người Annam muốn giết tôi, tôi sẵn lòng đổ máu ra vì người Annam."
- "Vậy ông có thù ghét người giết ông không?"
- "Chắc chắn là không, vì đạo Công Giáo dậy chúng tôi phải yêu mến cả những người ghét bỏ mình".
Quan tiếp tục hỏi nhưng câu thông lệ, như kê khai người chứa chấp và bắt ép đạp ảnh. Cha Ven quyết liệt nói lên ý chí của mình: "Làm sao đạp ảnh được, tôi đã giảng dậy đạo thánh giá cho tới ngày hôm nay, tại sao quan lại bắt tôi chối đạo. Tôi không coi mạng sống dưới trần này trọng gì mà phải chối đạo để giữ mạng sống?"
Quan vặn lại: "Tại sao lại trốn tránh?"
- "Thưa quan, đạo cấm việc cậy sức riêng mình. Nhưng nếu Trời muốn tôi bị bắt thì tôi tin rằng Ngài sẽ ban sức mạnh để tôi chịu mọi cực hình và bền vững xưng đạo đến chết".
Ba lần ký lục bắt Cha Ven viết lời khai có chữ tà đạo, cha nhất mực bắt thay vào bằng chữ đạo Giatô, còn nếu quan muốn thì thêm vào sau. Ngay hôm đó các quan làm bản án và ngày 17-12 gửi về Huế. Bản án viết: "Ðạo trưởng Tây gọi là cố Ven, nhưng tên thực là Vena, bị kết án vì mù quáng và cố chấp đã rõ, luận phải chặt đầu và bêu đầu ba ngày rồi buông sông".
Trong hai tháng bị giam trong cũi cao 1m55, dài hai mét và rộng 1m20, Cha Ven đã mua vui những người lính canh bằng những bài ca Latinh, và giữa đêm Sinh Nhật đã hát những bài ca Giáng Sinh hân hoan trong bầu khí thinh lặng. Về sau bà Nghiên và bà Xin được phép nấu cơm cho Cha Ven và nhờ đó đã có thể khôn khéo đem Mình Thánh Chúa cho ngài, kẹp trong lá trầu tươi. Bình thường Cha Ven hướng về một nhà thờ xa xăm nào đó có đặt Mình Thánh để cầu nguyện. Với sự khôn khéo của một số giáo dân, họ đã có thể đưa Cha Thịnh đến giải tội cho Cha Ven. Giữa cảnh tù đầy, Cha Ven vẫn có một tâm hồn thanh thản như ao hồ mùa thu. Một lần bà Xin thấy bên cạnh cũi có con chuột định đánh đuổi thì Cha Ven bảo: "Ðừng làm vậy, hãy để chúng nhảy nhót, đó là điều giải trí của cha".
Một số quan nhỏ hay lui tới nói truyện và bàn bạc về hạnh phúc: "Tại sao lại đến đây để chịu chết?" Cha Ven trả lời: "Chính vì tôi là một linh mục, tôi thương xót các linh hồn. Tôi đến chỉ để rao giảng tin mừng, một con đường hạnh phúc".
Ông quan nhỏ tỏ ra thán phục lời nói cương quyết của cha nhưng lịch sự đáp lại:
"Thưa ngài, ở đây, cái chết đang chờ ngài chứ đâu có hạnh phúc?"
Mỉm cười, Cha Ven đáp: "Tôi rất sung sướng được chết, ông thấy không?"
Cha Ven luôn ao ước vinh dự được chết vì Chúa, theo gương Thánh Phaolô tông đồ, trong các thư gửi cho gia đình và bạn bè ngài luôn ký tên là người tù của Chúa Giêsu. Viết cho Ðức Cha Theurel, ngài mượn lời Thánh Martin như sau: "Lạy Chúa nếu con còn làm ích được cho dân Chúa con không từ chối làm việc, nhưng với lời Thánh Phaolô con thưa: Giờ ra đi của con đã gần. Ðối với đức cha, Chúa Kitô là cuộc sống, phần con, con chiếm đoạt bằng cái chết".
Trong thư gửi cho Ðức Cha chính Jeantet, ngài viết mấy vần thơ ca tụng Bắc Việt như sau:
"Ôi Bắc Việt cao quí,
Ðất được Chúa chúc lành.
Quê hương của bao nhiêu vị anh hùng đức tin.
Tôi đến để phục vụ ngươi.
Hạnh phúc được sống và chết vì ngươi".
Trong thư gửi cho người cha già, Thừa Sai Vénard viết: "Tại đây, từ quan cho đến người lính gác đều lấy làm tiếc luật pháp nước này kết án con. Con không hề bị đánh đập như một số đồng bạn khác. Chỉ một lát gươm vào cổ, con sẽ như bông hoa mùa Xuân mà chủ vườn ngắt lấy vì thích thú... Tất cả chúng ta đều là những bông hoa Chúa trồng và ngắt về theo thời gian, người sớm kẻ muộn". Trong thư từ giã chị Mélanie mà Cha Ven coi như hai tim hòa nhịp cảm thông và yêu thương từ hồi nhỏ, ngài viết: "Bây giờ gần nửa đêm. Chung quanh cũi gỗ là những rừng gươm giáo. Trong góc căn phòng một toán lính đang chơi bài, một toán khác chơi xúc sắc. Thỉnh thoảng lính canh đánh trống điểm canh. Cách chỗ em hai thước, một ngọn đèn dầu leo lét trên tấm giấy tầu giúp em có thể viết cho chị những dòng chữ này. Em chờ đợi từng ngày bản án. Có lẽ ngày mai em sẽ bị điệu ra nơi pháp trường chịu chết. Ôi hạnh phúc thay cái chết, một cái chết mong ước từ lâu để đưa về cõi sống..."
Thật vậy từng ngày Cha Ven nhìn lính phu trạm đưa thư vào dinh quan mà nôn nao dò hỏi xem có phải là bản án tử của triều đình không. Cha viết cho Ðức Cha Theurel: "Mỗi bình minh tôi chào mừng dường như bình minh của trường sinh bất tử nhưng vĩnh cửu vẫn chưa mở cửa cho tôi". Ðúng ngày lễ Ðức Mẹ dâng mình, ngày mùng 2-2-1861, Cha Ven được báo tin để ra pháp trường. Cha mặc áo mới của đại lễ mà cha đã bảo bà Nghiên may sẵn, một chiếc quần dài trắng, một áo ngắn trắng và một áo dài bằng lụa màu đen, một cái khăn đống mầu đen, giây thắt lưng và dép, tất cả mới toanh. Với thái độ điềm tĩnh cha khuyên nhủ từ biệt hai thầy giảng và bạn tù: "Chúng con hãy can đảm chịu đựng khổ cực. Trên trời cha không quên chúng con".
Ngài trao cho bà Nghiên cuốn sách nguyện, tràng hạt và cây thánh giá. Lính đem bữa ăn thịnh soạn cuối cùng cho tù nhân, Cha Ven nói: "Này các bạn tôi không dùng đâu, hôm nay tôi sẽ được no đầy sung sướng".
Nhưng lính canh nào có hiểu được ý nghĩa cao sâu, nói đùa với cha: "Xin ngài hãy can đảm lên, dùng một chút cho có sức mạnh ra ngồi một mình một chiếu".
Hai trăm lính hộ tống quan lớn đem Cha Ven ra khỏi thành. Cha Thịnh đã được dặn khi ra khỏi thành 200 thước Cha Ven sẽ giơ tay để lên trán thì ban phép giải tội cho ngài. Nhưng vì vội quá Cha Thịnh không hay biết nên Cha Ven nhớn nhác tìm kiếm...
Ðám đông dân chúng Hà Nội đi theo, quan án lên tiếng nói: "Thưa thầy, thầy và đồng đạo coi cái chết như là đạt được ước nguyện, là niềm vui khôn xiết. Vậy xin ngài hãy thỏa lòng. Vua và hội đồng nội các kết án ngài, còn chúng tôi không muốn máu ngài phải đổ ra đâu".
Cha Ven đáp lại: "Chắc chắn là vậy. Người Công Giáo coi cuộc sống ở đời này là cuộc lưu đầy tạm gửi, còn cái chết là trở về quê thật. Nhưng nếu tôi chết trước thì các ngài quan lớn cũng đến ngày cùng, một ngày không xa, không hơn không kém gì tôi, nhưng các ngài sẽ phải ra trước mặt đấng thẩm phán chí công".
Với đám đông Cha Ven phân phô: "Anh chị em biết rõ tôi hoàn toàn vô tội, dầu vậy các quan đem tôi đi xử... Ôi tôi sung sướng thay!Tôi rời bỏ quê hương tôi, vượt qua trùng dương mênh mông đầy nguy hiểm, tôi đến nước này để loan báo đạo Chúa Giêsu và mở cửa trời cho đoàn lũ vô số linh hồn. Phần thưởng nào sẽ dành cho tôi, chính là cái chết, nhưng cái chết đẹp nhất trên mọi cái chết khác..."
Thế rồi ngài hát bài ca Ngợi Khen (Magnificat) bằng tiếng Latinh. Tới bờ sông, khi mọi sự sẵn sàng tên đao phủ mánh khóe nói ngài phải xử bá đao nên phải cởi áo quần, với dụng ý lấy bộ quần áo mới không nhuốm máu của ngài. Lưỡi gươm lâu ngày cùn, tên lính đao phủ xin xỏ với ngài cho tiền nếu nó chém ngon cho ngài chết tốt, nhưng Cha Ven bảo tên lính chém càng nhiều nhát càng tốt. Thế là Cha Ven bị chém bốn nhát đầu mới rơi khỏi cổ. Hôm ấy cha được đúng 31 tuổi, hai tháng và 11 ngày, đã truyền giáo ở Bắc Việt 6 năm 6 tháng và 15 ngày. Chính lúc xử một đám mây bao phủ trên trời.
Xác cha được chôn tại bờ sông còn đầu bị bêu ba ngày và buông sông. Vì là sát ngày Tết Việt Nam nên mãi tới ngày 15-2 mới vớt được đầu ngài, cách Hà Nội 16km, và ngày 24-2 được đem đến trao lại cho hai Ðức Cha Jeantet và Theurel đang trốn ở Kẻ Trù. Ngày 3-7-1862 giáo dân sửa lại mộ của ngài đưa về Ðông Trì, và khi điều tra phong thánh, chủng viện thừa sai đòi đem xác ngài về Pháp năm 1865, nhưng đầu của ngài vẫn được giữ lại trong địa phận Hà Nội.
Báo chí tại Pháp đăng tải những thơ hồn nhiên và cảm động của Cha Thánh Ven và bắt đầu sùng kính ngài, nhất là tại sinh quán của ngài, Saint Loup Sur Thouet, dân chúng hàng năm làm lễ kỉ niệm. Ngài trở thành vị thánh đặc biệt của Thánh Têrêsa Hài Ðồng. Bốn tháng trước khi chết, Thánh Têrêsa đã nói với mẹ bề trên Agnes: "Năm ngoái khoảng tháng 11, lúc ấy là ngày con đáng lẽ đi Bắc Việt như chương trình, mẹ nhớ không? Ðể có một dấu chỉ là ý Chúa muốn con đi, con làm tuần cửu nhật kính Cha Theophane Vénard. Trong tuần này con có thể tham dự mọi việc với cộng đoàn, kể cả giờ kinh sáng. Chính trong tuần cửu nhật, con bắt đầu ho, và từ đó mỗi ngày tệ hơn. Chính ngài gọi con".
Trước khi chết, Thánh Têrêsa Hài Ðồng còn viết một bài dựa theo những dòng chữ của Cha Vénard khi ở trong cũi Hà Nội, phó thác và chờ đợi cái chết với lòng bình thản như hồ nước lặng yên.
Đã đọc: 1003 |