Ai sạch tội ném đá đi
Các sách Tin Mừng đã tường thuật ba phép lạ Chúa Giêsu cho người chết sống lại: người thanh niên con bà góa thành Na-in, Em bé con ông Giairô, và Ladarô. Nhưng việc Ladarô sống lại quan trọng hơn hết và mang nhiều ý nghĩa. Trình thuật này đặc biệt của Gioan.
Phép lạ này xảy ra trong một gia đình khá giả, gia đình của chị Matta, là một gia đình đã đón tiếp Chúa Giêsu mỗi khi Ngài giảng ở Bêtania. Theo trình thuật của thánh Gioan thì Chúa Giêsu xem các chị em của Ladarô như gia đình của mình. Cách đối xử của Ngài rất thân tình.
Ladarô lâm bệnh nặng khi Ngài đang đi giảng ở xa. Gia đình sai người cho Ngài hay, nhưng Ngài hình như không muốn can thiệp ngay lại nói một câu như không quan tâm cho lắm: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh”. Như thế chứng tỏ Ngài có một chương trình rõ rệt, Ngài biết phải làm gì.
Ngài tiếp tục rao giảng. Vài ngày sau, Ngài nhắc đến với những lời mà các môn đệ cũng không thể hiểu ngay: “Ladarô, bạn chúng ta đã yên giấc rồi. Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ không hiểu, Ngài phải nói rõ: “Ladarô chết rồi”.
Chúa Giêsu làm phép lạ luôn là để chứng tỏ một khía cạnh nào đó trong sứ mệnh của Ngài. Ngài dùng một hoàn cảnh thực tế và giúp mọi người đạt đến niềm tin. Ngài đã hóa nước lã thành rượu ngon tại Cana là “để các môn đệ tin Ngài”. Ở đây, cái chết của Ladarô cũng là một dịp để Ngài tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa cho dân và để “nhiều người tin Ngài”.
Đến nơi, Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Người Ngài gặp đầu tiên là chị Matta: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Chị Matta nói như thế có nghĩa là còn một niềm cậy trông nào đó, dù nó thật mong manh. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu ngắn: “Em con sẽ sống lại”. Matta thuộc giáo lý nên trả lời: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Tất cả câu chuyện xoay quanh câu nói lạ lùng này. Trên trần gian, chỉ có một mình Ngài mới có thể nói câu đó mà không sợ mình nói dối. Mọi người đều chết và cho đến tận thế, không ai thoát khỏi cái chết. Chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống mà thôi. Điều này giúp chúng ta vững tin.
Chúa Giêsu còn hỏi chị Matta: “Con có tin thế không?” Matta tuyên xưng đức tin: “Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Đấng phải đến trong thế gian”. Chúng ta nhớ ngay đến Phêrô, ngày nào đó cũng đã tuyên xưng như thế: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Chúng ta có tin như thế không?
Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhìn lại đức tin của mình. Nếu chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa Hằng Sống, thì cuộc sống chúng ta phải như thế nào?
Có lẽ bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng tất cả đều khác, không giống những người không có đức tin. Chúng ta sẽ không bồn chồn lo lắng về tương lai, không sợ sệt dù phải gặp gian nan hay sự thù hằn của kẻ vô đạo. Chúng ta luôn an vui thanh thản, bình an, vì Chúa bảo đảm tất cả, cuộc sống chúng ta nằm trong tay Ngài. Tin là cảm thấy mình không sống một mình mà luôn với Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta.
Sau khi gặp Thầy, Matta về báo tin cho em là Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”.
Maria đang ngồi trong nhà và đang khóc em với mấy cô bạn. Nghe Thầy đến Maria đứng phắc dậy và chạy. Ai cũng tưởng cô chạy ra mộ để khóc em.
Gặp Chúa Giêsu, cũng một lời như chị Matta: “Nếu Thầy có ở đây thì em con đâu có chết”. Một câu dường như trách móc. Cô òa lên khóc và những người chung quanh cũng khóc theo. Thánh Gioan ghi nhận: “Thấy Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.”
Khi đứng trước cửa mộ, Chúa Giêsu lại rơi lệ và thổn thức trong lòng. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài biết sẽ cho Ladarô sống lại, tại sao Ngài lại khóc? Những người Do Thái ở đó không hiểu và ngạc nhiên: “Kìa xem ông ấy thương Ladarô biết bao!”
Chúng ta không thể hiểu chính xác, nhưng chúng ta có thể đoán rằng Ngài khóc vì thấy mấy chị em Ladarô phải đau khổ và trải qua một cơn thử thách nặng nề. Ngài khóc không phải vì Ladarô đã nặng mùi trong mồ mà vì thế gian đang tan rửa và nặng mùi trong tội ác của mình. Ngài đã từng khóc trên thành Giêrusalem, vì con người đã từ chối hồng ân của Chúa. Ngài vẫn còn khóc cho đến tận thế vì thế gian đã từ chối tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống, bằng những hình ảnh gợi lên niềm tin. Cái chết của Ladarô là một sự kiện điển hình nhất.
Trong biến cố này, Ngài chứng tỏ một cách hùng hồn, Ngài là chủ của sự sống, Là Sự Sống và là Sự Sống Lại. Những lần Ngài đã cho kẻ chết sống lại: Người thanh niên con bà góa thành Na-in, em bé con ông Giairô, người ta cũng kinh ngạc nhưng không gây một ấn tượng mãnh liệt như lần này.
Ngài ra mộ và truyền cất cửa mộ ra. (Theo tục lệ của người Do Thái, khi thân nhân nào về trễ, không thể dự đám tang, trong khi chưa nặng mùi thì người ta có thể yêu cầu giở cửa mộ cho người ta nhìn mặt người chết lần cuối). Tưởng Chúa Giêsu cũng yêu cầu như thế nên chị Matta ngăn lại: “Thưa Thầy, nặng mùi lắm rồi, Thầy”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhấn mạnh: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao? Vinh quang Thiên Chúa được nhắc lại lần thứ hai.
Cửa mộ đã mở ra, nhưng Chúa Giêsu không vội vàng, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con, nhưng vì dân chúng quanh đây, nên Con nói để họ tin rằng Cha đã sai con.” Qua lời cầu nguyện này, chúng ta thấy rõ ý định của Ngài là mạc khải sứ mệnh thiên sai của Ngài. Người Do Thái có thể hiểu ngay Ngài là ai.
Cầu nguyện xong Ngài kêu lớn tiếng: “Ladarô, ra khỏi mồ”. Người chết lập tức chui ra.
Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc bấy giờ, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta dám tin không? Thánh Gioan ghi lại: “Trong số những người Do Thái (có mặt tại đó) đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người”. Đó là kết quả hiển nhiên. Chúng ta không chứng kiến những điều lạ lùng như thế, chúng ta vẫn có thể được chúc phúc: “Phúc cho những kẻ không thấy mà tin”.
Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trở thành tất cả của ngài. Ngài đã diễn tả niềm tin của ngài nhiều lần trong các bức thư của ngài. Hôm nay, chúng ta cũng vừa nghe nhắc lại: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô. Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và coi tất cả như rác, để được Đức Kitô”. Người là “Sự Sống lại và là Sự Sống”. Nhìn Ladarô sống lại, chúng ta có cảm thấy như thánh Phaolô đã nói: “anh em đã được chỗi dậy với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” không?
Nơi Ladarô, chúng ta nhìn thấy tương lai của chúng ta. Sự sống hôm nay mang hai chiều kích: chết cho thế gian và sống lại trong Đức Kitô. “Cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử”. Đó là hồng ân tuyệt diệu chúng ta đang nắm trong tay, đừng để nó suy tàn vì sự ham mê trần thế.
“Hãy nâng tâm hồn lên”. Giáo hội luôn nhắc chúng ta như thế. Chúa Giêsu muốn chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, và hơn nữa, chúng ta có sứ mệnh thánh hóa trần gian. Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách đặc biệt đến điểm này: Kitô hữu phải thánh hóa mọi thực tại trần gian, sử dụng trần gian để xây dựng Nước Chúa. Chúng ta đang sống cho sự sống lại. Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta quy mọi sự về với Chúa. Các tạo vật sẽ “không lệ thuộc vào cảnh hư nát mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng sự tự do và vinh quang”.
Sự sống đời đời mà chúng ta đang hướng đến đang ở đây, nơi bàn thờ hiến tế này. Để giúp chúng ta sống lại với Ngài, chính Chúa Giêsu chấp nhận đến với chúng ta bằng một tấm bánh. Ngài là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Ngài ngay hôm nay, chúng ta đã sống trong Ngài, chờ đợi vinh quang tỏ hiện: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
Đã đọc: 127 |