Tin Vui
MỞ RỘNG | THU GỌN

Suy niệm Tin Mừng
Thứ Sáu tuần lễ 30  TN    Thánh hóa ngày lễ nghỉ (Lc 14,1-6)     
Thứ Năm tuần lễ 30  TN    Đáp lại tình yêu Chúa (Lc 13,31-35)     
Thứ Tư tuần lễ 30  TN    Chiến đấu qua cửa hẹp (Lc 13,22-30)     
Thánh Si-mon và Ta-đê-ô, tông đồ (28/10)  TN    Là Tông đồ giáo dân giữa đời (Lc 6,12-19)     
Thứ Hai tuần lễ 30  TN    Đức tin và lòng thương xót (Lc 13,10-17)     
CN 30 TN  Năm C    Lời nguyện vắn (Lc 18,9-14)     
CN 30 TN  Năm C    Lạy Chúa, xin thương xót con      (Dã Quỳ)
CN 30 TN  Năm C    Khiêm tốn     
Thứ Bảy tuần lễ 29  TN    Xét mình, đừng xét đoán (Lc 13,1-9)     
Thứ Sáu tuần lễ 29  TN    Nhận xét dấu chỉ thời đại (Lc 12,54-59)     
Thứ Năm tuần lễ 29  TN    Lửa tình yêu, lửa huyền siêu (Lc 12,49-53)     
Thứ Tư tuần lễ 29  TN    Chúa sẽ đền bù cân xứng (Lc 12,39-48)     
Thứ Ba tuần lễ 29  TN    Tỉnh thức là thượng sách (Lc 12,35-38)     
Thứ Hai tuần lễ 29  TN    Làm giầu trước mặt Chúa (Lc 12,13-21)     

Tìm kiếm nhanh
Theo tên bài hát
A B C D Đ E F G
H I J K L M N O
P Q R S T U Ư V
W X Y Z 0   9
Theo ca sĩ
A B C D Đ E F G
H I J K L M N O
P Q R S T U Ư V
W X Y Z 0   9

Tìm kiếm audio
Tìm
Theo
Tìm chính xác
Gần chính xác

Công cụ nghe nhạc

Để nghe nhạc, computer của bạn cần có:


Thống Kê
Nhạc phẩm: 5652
Số Ca Sĩ: 212
Thành viên: 360
Thành viên mới:
anhmayly
Đang online: 201
Khách: 201
Thành viên: 0
28/10  Thánh Gioan Đạt


Gioan ÐẠT, sinh năm 1765 tại Ðồng Chuối, Thanh Hóa, Linh Mục, xử trảm ngày 28-10-1798 tại Chợ Rạ dưới đời vua Cảnh Thịnh, phong Chân Phúc ngày 27-5-1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 28-10.

Thánh Gioan Ðạt sinh năm 1765 tại làng Khê Cầu, xứ Ðồng Chuối, huyện Bình Lục, tỉnh Thanh Hóa. Cha ngài chết sớm để lại hai người con trai. Mẹ ngài đã phải vất vả nuôi hai anh em. Khi còn nhỏ ngài đã muốn vào nhà Ðức Chúa Trời nhưng mẹ ngài vì thương con không muốn cho con đi. Với quyết tâm, ngài đã xin ở với Cha Loan. Ðến năm 18 tuổi ngài được gửi đi học tại trường Latinh. Lên bậc kẻ giảng, ngài đã giúp nhiều cố thừa sai. Năm 1798 ngài được thụ phong linh mục và được chỉ định giúp cố chính Le Roy. Cha chính Le Roy có làm chứng về ngài: "Cha Ðạt có lòng yêu chuộng nhân đức khó khăn, hay vâng lời và chăm đọc sách, siêng năng làm các việc thuộc bậc mình, dù có ốm đau cũng không kêu ca và không khi nào ngài phàn nàn điều gì. Ðức Cha La Mothe kính ngài như một vị thánh. Các cố khác như Le Pavec, Tessier cũng rất yêu kính ngài. Ngài giảng rất sốt sắng, không du nịnh, đánh động lòng nhiều người tội lỗi trở lại".

Thi hành chức vụ chủ chăn được 4 tháng thì ngài bị bắt tại Thần Phù ngày 25-8-1798. Khi ngài vừa làm lễ xong tại nhà ông Trùm họ Thần Phù thì quân lính đến vây làng tra hỏi xem ngài trốn ở đâu. Giáo dân xin ngài trốn đi nhưng ngài ôn tồn trả lời: "Nếu tôi trốn đi thì cả làng sẽ phải khốn khó".

Nói rồi ngài ra nộp mình cho lính bắt. Lính trói ngài lại và hành hung ngài dữ tợn. Thấy vậy giáo dân muốn chịu đòn thay cho ngài, nhưng lính không cho, nói là chỉ linh mục chịu tội thôi. Sau đó ngài bị giải đến nhà quan.

Y sĩ Huyền Trang thuật lại buổi thẩm vấn đầu tiên như sau: "Chiều ngày 16-7 Âm Lịch, tôi đến cung điện của hoàng đệ Nguyễn Quang Thùy (em vua Cảnh Thịnh, coi Bắc Thanh) tôi nhìn sang sân nhà quan tổng trấn Thanh Hóa là Ðại Tư Lễ Miên Cộng Quân thấy có nhiều người cổ mang gông. Sau đó tôi thấy quan trấn bước vào, Cha Gioan Ðạt quì trước mặt cùng với 4 thầy giảng là các thầy Tam, Vinh, Tang và Huy, và hai thiếu niên. Lúc đó ngài hoàng đệ bước vào sân đường, theo sau có nhiều quan tước. Vì ở xa xa tôi không nghe được họ nói gì, chỉ thấy họ lôi Cha Ðạt qua tượng Chuộc Tội nhưng ngài ôm lấy và hôn kính".

Theo chứng từ của Thầy Tang, một trong 4 thầy bị bắt, thì hôm ấy quan hỏi Cha Ðạt có biết đọc các sách Tây Phương không. Cha Ðạt trả lời là có. Quan liền ra lệnh cho cha và các giáo dân cùng đọc. Cha Ðạt thưa lại: "Giáo dân không biết đọc những sách này".

Quan trấn lại ra lệnh cho cha và giáo dân đọc kinh tiếng Việt. Bấy giờ Cha Ðạt và các người cùng bị bắt đọc kinh 10 điều răn. Quan trấn nói: "Ðó là những lề luật của đạo các ngươi theo hả? Tại sao lại chối bỏ cha mẹ để theo đạo trưởng Kitô giáo?"

Hôm đó các giáo dân được tha về, họ chỉ giữ lại Cha Ðạt và ba thầy giảng, rồi giao cho ngũ đội luân phiên canh gác.

Theo lệ, tù nhân phải trả tiền dầu đèn và tiền công lính gác. Một hôm có tên lính đánh Cha Ðạt nhiều gậy để đòi tiền, thầy già Tâm xin chịu thay nhưng Cha Ðạt gạt đi rồi cởi áo của ngài để nộp thay tiền. Cũng ngày đó họ tháo gông nhẹ ra và đặt vào cổ các ngài gông nặng hơn, với ẩn ý muốn nhiều tiền hơn. Ngày 25, y sĩ Huyền Trang đến gặp quan Ðô Ðốc Ðiều, trông coi ngũ đội, để chuyển các tù nhân sang nơi khác dễ dàng tiếp tế hơn. Quan đô đốc giao cho Ðô Úy Thiềng phụ trách. Ông cai đội Thiềng liền giao cho một tên lính dưới quyền tên là Tư, người Công Giáo, để dọn một phòng riêng cho Cha Ðạt và để giáo dân tự do đến thăm ngài. Cha Ðạt bị giam như thế gần hai tháng trời. Trong thời kỳ này ngài tiếp tục giúp bổn đạo, giải tội và khuyên bảo họ.

Một hôm có tên lính lấy cắp một trái chuối do giáo dân biếu Cha Ðạt, cai đội liền phạt đánh đòn tên lính này thì Cha Ðạt cản lại và nói: "Tôi ăn hay người khác ăn thì cũng vậy, xin đừng đánh nữa".

Quan đội cũng thưa: "Tôi đồng ý tháo gông cho cụ với điều kiện cụ không trốn đi".

Cha Ðạt khoan dung đáp lời: "Quan hãy làm như ý quan thích, phần tôi, tôi không bao giờ chạy trốn làm cho người khác phải tội thế chỗ của tôi".

Nhưng quan lại thay đổi ý không tháo gông cho ngài. Ngày 5-9 có tin là án xử đã được phê chuẩn. Cha Ðạt tỏ ra vui mừng hơn mọi ngày. Một giáo dân tên là Thông Huy cúi xuống hôn chân ngài nhưng ngài không cho. Thầy Tang kể lại: "Sau đó ngài nói với chúng tôi: 'Cha chính Le Roy, trong một lá thư gởi cho cha, đã khuyến khích cha nhủ bảo anh em hãy sẵn sàng dâng mạng sống mình cho Chúa Giêsu Kitô theo gương cha Triệu. Nếu chúng ta chịu mọi ngược đãi đến chết thì mọi người sẽ coi chúng ta là những người tử đạo. Nhưng chúng ta có được phúc này hay không thì cha không biết, vì thánh ý của Chúa thật khác lạ với ý nghĩ của con người. Chính cha theo tính sợ hãi của con người cũng run sợ trước mặt các quan và binh lính'. Nhân tiện tôi hỏi ngài: 'Thưa cha, bây giờ cha biết là mình sắp được chết, cha cho chúng con biết cha cảm thấy thế nào? Cha có sợ chết không?' Ngài liền đáp: 'Cha không sợ chết lúc này, nhưng đến giờ hành quyết giữa đám đông lính tráng cha không biết có giữ được bình tĩnh không, hay là sự sợ hãi có làm cho cha ngã té xuống đất không, cái đó cha không biết'. Thế rồi ngài tâm sự với chúng tôi: 'Vì mồ côi cha từ nhỏ, cha trải qua những ngày thơ ấu với mẹ và anh cả rất vất vả cực khổ. Cha vào được nhà Ðức Chúa Trời cũng không dễ dàng gì. Ở nhà tràng cha phải vất vả lắm mới học nổi tiếng Latinh. Cũng vậy cha phải khốn khổ mới học xong lý đoán. Khi được thụ phong linh mục, thật là một vinh dự lớn cho cha nhưng cũng nhiều công việc chồng chất. Và bây giờ công việc cuối cùng của cha là chịu chết vì Chúa Giêsu. Như thế đó, suốt đời của cha từ nhỏ đến ngày hôm nay có rất nhiều khốn khó và lao nhọc'. Sau đó ngài truyền lệnh cho chúng tôi, khi được tha về phải tìm cách gặp các linh mục khác để xin các ngài thận trọng giữ gìn hầu có thể giúp đỡ giáo dân. Trong tù, nhiều lần Cha Ðạt bắt chúng tôi ngồi ăn với ngài nếu không ngài không bằng lòng. Một hôm có tên lính khuyên ngài: 'Thưa cụ, cụ còn trẻ lắm mà đã phải kết án chết sớm thật tiếc, nếu cụ muốn giữ mạng sống mình thì hãy vâng mệnh lệnh của vua mà chối bỏ đạo Công Giáo và chức vụ linh mục'. Cha Ðạt đáp lại: 'Nếu vua thuận cho tôi sống, tôi rất biết ơn, mà nếu vua truyền lệnh cho tôi phải chết tôi cũng vẫn biết ơn hoàng thượng. Dầu thế nào thì tôi vẫn một mực giữ đức tin của tôi. Một tên khác nói với ngài: 'Xin cụ nhớ đến tôi khi cụ bước vào hạnh phúc đời đờí. Cha Ðạt đáp: 'Tôi chưa biết Thiên Chúa định liệu thế nào, nhưng tại sao anh lại xin với tôi điều này? Các thánh trên trời hưởng hạnh phúc lại không nghĩ đến chúng ta luôn sao?’"

Ngày 12-9 Âm Lịch, hội đồng cố vấn họp lại và ấn định ngày 20 sẽ thi hành án trảm quyết, đồng thời ra lệnh cho quan cũng như dân thuộc 12 huyện trong tỉnh Thanh Hoá kê khai những người Công Giáo, để bắt họ đến dự cuộc hành quyết của ngài. Từ ngày đó lương dân cũng như giáo dân Công Giáo bùi ngùi đến viếng thăm ngài. Họ nói với nhau: "Linh mục này hãy còn thanh xuân, gương mặt hiền hòa trấn tĩnh, can đảm trổi hơn cả những quan tướng thời danh trong triều, thật xứng đáng là thủ lãnh dân Công Giáo".

Với người Công Giáo, ngài e sợ họ không đủ can đảm trong ngày 20 sắp tới nên đã khuyên họ: "Ðược chịu khổ và chết vì Chúa Giêsu là một hạnh phúc nhất. Tất cả các dân tộc trên thế giới có rất đông người tử vì đạo. Nước Việt chúng ta cho tới nay chưa có là bao nhiêu. Cha ước mong là tất cả chúng con được vinh dự này, nhất là những người ở nhà Ðức Chúa Trời và các bạn tù của cha. Ước chi chúng ta cùng được đổ máu ra một lượt trong sân đình của quan trấn ngày 20 tới, trước mặt các quan, các binh lính và đông đảo dân chúng để làm chứng rằng đạo Công Giáo là đạo chân thật. Chính Thiên Chúa sẽ làm cho các con mạnh mẽ, chính Ngài định cho các biến cố xảy ra. Chớ gì thánh ý Ngài được hoàn tất. Nếu trong ngày đó quan hoàng đệ và quan trấn có làm điều gì phạm tới đạo thánh của chúng ta, các con cứ để cha biện bạch thưa lại, đó là bổn phận của cha, cha không thể im lặng được. Phần chúng con, hãy khuyến khích nhau, nâng đỡ nhau để đừng ai yếu lòng sa ngã. Vì như thế sẽ sinh gương xấu cho những người khác".

Ngày 16, Thầy Ðoàn và Trác dàn xếp với lính canh cho phép Cha Ðạt tới nhà một người Công Giáo tên là Cẩm để xưng tội với Cha Huấn. Chiều ngày 17 ngài gặp Cha Huấn, rồi sau đó đi chào quan đô đốc Ðiều và quan đô úy Thiềng xin họ nhân nhượng với các người bị giam giữ và tha phạt 50 đòn cho họ. Ngài nói với quan Ðô Úy: "Ngày kết liễu đời tôi gần đến, tôi cám ơn ngài đã tỏ ra đại độ với tôi và các giáo hữu. Tôi sẵn lòng vâng theo thánh ý Thiên Chúa, và ý của hoàng thượng đã phê án tử cho tôi. Tôi không sợ hãi cũng không lo lắng, tôi không kêu trách hay than phiền điều chi cả. Tôi chỉ xin ngài thương đối xử rộng rãi với các giáo hữu, bênh vực đạo Công Giáo để đời này quan được sung sướng và đời sau được hạnh phúc mãi mãi".

"Trở về nhà giam", Thầy Tang kể lại, "ngài nói với chúng tôi: 'Bất cứ bằng cách nào chúng con có chết, cũng chỉ chết có một lần. Bởi vậy, các con thân yêu, hãy sẵn sàng để chết lành thánh. Nếu quan có đánh đập chúng con tàn bạo mà chết trước mặt cha, hoặc quan có giận dữ kết án cùng lúc với cha thì cha càng vui mừng lắm. Sau khi cha chết, các con hãy đãi các binh lính một bữa ăn vì họ đã coi sóc chúng ta nhiều ngày, và sau này nếu có người nào khác bị bắt thì họ đối xử nhân nhượng hơn'. Ngài còn nói là không phải đi chào ai nữa, có lẽ ngày mai chào quan hoàng đệ tại sân đình nữa thôi. Ðoạn ngài dậy chúng tôi lạy các binh lính với ngài. Binh lính vội vã xua tay phân phô: 'Các quan lớn như quan đề đốc, đô úy còn không dám nhận bái lậy, nào chúng tôi dám'. Cha Ðạt nói với họ: 'Thưa các ông, trong nhiều ngày các ông dẫn chúng tôi đi đây đi đó, coi sóc chúng tôi ngày cũng như đêm thật vất vả. Chúng tôi sẽ kính mời các ông một bữa ăn để tỏ lòng biết ơn, các thầy giảng của tôi sẽ làm việc đó sau. Tôi xin các ông rộng tay với họ'. Các binh sĩ cũng đáp lời: 'Thưa cụ, sau khi cụ chết rồi, có thức ăn nào làm chúng tôi ngon miệng nữa? Chúng tôi chỉ ăn ngon nếu như hoàng thượng trả tự do cho cụ'. Trong lúc bồi hồi có tên lính bật miệng trách mắng các quan: 'Những người ấy thật là giống quỉ, không săn sóc dân chúng mà lại đi bắt bớ. Họ hành hạ những người tốt lành, những công dân gương mẫu, mà lại để yên cho những người hại dân hại nước'. Liền đó ngài khuyên chúng tôi: 'Có lẽ Thiên Chúa muốn rằng chúng con còn sống lâu để lập nhiều công phúc. Chính vậy, các con thân yêu, hãy làm thật nhiều việc lành'".

Ngày 20 là ngày Chủ Nhật, Cha Ðạt ăn lót dạ như thường lệ. Từ sáng sớm, quan hoàng đệ và quan trấn đã có mặt tại phủ đường, ra lệnh cho dẫn giáo dân và Cha Ðạt tới. Ngài đứng bên phải sân đình, các thầy giảng đứng bên trái và giáo dân đứng ở giữa. Hoàng đệ cất tiếng nói: "Lệnh của hoàng thượng truyền rằng đạo trưởng của các ngươi phải chết, còn các ngươi được trả tự do nhưng từ nay phải bỏ đạo ấy không được theo nữa".

Lúc đó không ai dám nói điều gì. Ðoạn lính tháo gông các tù nhân và cho phép họ theo chân Cha Ðạt tới chỗ hành quyết. Sau đó quan hoàng đệ nói với Cha Ðạt: "Hoàng đế đã ra án tử cho cụ để trừng phạt tội đã theo và giảng dậy đạo Công Giáo, và cũng để làm gương cho giáo hữu sợ mà từ bỏ đạo ấy".

Còn giáo dân, từ hôm có lệnh của quan trấn ngày 12, thì rất sợ hãi, nhưng bữa nay họ bạo dạn không còn sợ hãi nữa, đến rất đông đảo. Quan trấn mắng Cha Ðạt: "Vô phúc cho cụ Ðạt đứng đầu bọn phản loạn. Sinh tại Bắc Việt tại sao lại theo đạo ngoại lai? Cơm gạo cụ ăn từ đâu mà có? Ngươi rắp tâm thờ kính vua của người Bồ (ám chỉ đạo Công Giáo), vậy ngươi đã tới nước Bồ Ðào Nha chưa? Còn các người Công Giáo, hãy trở về nhà và thay đổi lối sống đi. Ta sẽ sai quan dò thám giữa các ngươi. Nếu các ngươi còn cứng đầu cứng cổ giữ đạo tà thần và đọc kinh, ta sẽ lấy đầu các ngươi. Ta đã đốt sạch các kinh rồi các ngươi lấy đâu mà học nữa? Nếu đạo này có uy lực gì sao không giải cứu các ngươi khỏi nanh vuốt của ta?"

Bấy giờ Cha Ðạt mới lên tiếng thật lớn: "Các giáo hữu, hãy suy nghĩ chín chắn trước khi trả lời, đừng có phản lại đạo thánh. Chúng ta là các tín hữu, chúng ta phải thờ kính một Thiên Chúa trên hết và thực hành các giới răn của Ngài. Sau đó chúng ta phải giữ các mệnh lệnh của vua nếu là những điều tốt và phải lẽ, song những điều trái nghịch chúng ta không được vâng theo".

Khoảng 9 giờ sáng, quan hoàng đệ ra lệnh cho đại đô đốc Ðiều đưa Cha Ðạt tới chỗ hành quyết. Quan trấn ra khỏi công đường chừng 100 bước thì dừng lại, dàn đội lính thành hai hàng kèm hai bên chỗ Cha Ðạt đang ngồi, rồi quan đô úy Thiềng ra lệnh cho các giáo hữu đi vào giữa hai hàng lính. Bỗng chốc họ la khóc, bái lạy Cha Ðạt và hôn chân ngài bằng nước mắt. Riêng Cha Ðạt vẫn giữ vẻ mặt bình thản vui tươi. Quan, binh lính và dân chúng tiến đi trong lặng lẽ. Lương dân đứng đầy lối đi hai bên đường. Một người đứng gần đó nói: "Tại sao cụ không ngẩng mặt lên để mọi người có thể xem thấy".

Cha Ðạt ngẩng mặt lên, người đó lại nói tiếp: "Ô, đạo gì mà lại dậy con cái bỏ cha mẹ? Thật đáng kiếp, xử tử là phải".

Cha Ðạt quay sang nói với người này: "Ông nói như vậy vì ông không biết đạo thánh của chúng tôi truyền dậy phải thảo kính cha mẹ hết lòng hết sức".

Quan trên ra lệnh cho dọn một bữa ăn cho vị tử đạo trong một căn nhà trên đường. Ngài ăn ngon lành. Quan ngạc nhiên nói: "Thật lạ lùng, vị đạo trưởng này lòng vững chắc như thạch đồng".

Khoảng 1một giờ, đại đô đốc Ðiều cỡi lên mình voi, 4 cai đội cỡi ngựa và hơn 100 quân lính đi thành hai hàng với gươm giáo sẵn sàng. Ra khỏi thành họ đến một khu chợ, quan ra lệnh cho quân lính đi ra hai phía, để khoảng trống trước mặt Cha Ðạt cho giáo dân đến chào, nhưng cấm lương dân tiến vào. Sau đó họ tiếp tục đi khoảng 100 bước tới sông Triêng. Quan thổi kèn ra hiệu cho các thuyền chở giáo dân qua sông trước rồi đến các quan, binh lính và dân chúng. Vừa qua sông thì trời nổi cơn giông, mưa tuôn xối xả, đoàn người phải dừng lại khoảng nửa tiếng trời mới tạnh. Họ tiếp tục đi vào xứ Công Giáo Trinh Hạ. Tới nơi quân lính dàn thành một vòng tròn bao quanh khoảng trống, ở giữa trải một chiếc chiếu dành cho Cha Ðạt. Họ tháo gông và ra hiệu cho ngài ngồi xuống. Quan ra hiệu cho phép giáo dân vào trong bái chào ngài lần cuối cùng. Họ tuốn vào khóc lóc và hôn chân hôn tay ngài. Ngài vẫn giữ nét mặt bình thản. Y sĩ Huyền Trang sợ giáo dân khóc lóc thảm thiết làm ngài động lòng liền khoa tay cho mọi người rút lui. Họ đưa cho ngài ít thức ăn, nhưng ngài chỉ ăn hai múi cam rồi xin quan vài phút dọn lòng. Quan không hiểu là gì nên một thầy giải thích: "Thầy của chúng tôi muốn chuẩn bị tâm hồn trước khi chịu chết vì đạo thánh".

Quan ưng thuận cho ngài vài phút. Lúc bấy giờ là một giờ trưa, Cha Ðạt quay về hướng nhà thờ làng Trinh Hạ ngồi ngay ngắn, hai tay chắp trước ngực, mắt nhắm lại đọc kinh cầu nguyện. Các thầy lui ra sau ba bước, chào các quan và chờ khi nào Cha Ðạt đã sẵn sàng, mới ra hiệu cho lý hình thi hành phận sự. Y sĩ Huyền Trang kể lại: "Khi tôi quay lại đã thấy đầu ngài rơi xuống đất, máu phun thành dòng, thân ngài ngã ra phía sau, tay vẫn chắp trước ngực".

Quan lập tức nói với giáo dân: "Ta cho phép các người Công Giáo mang xác cụ về an táng".

Nói xong quan cỡi voi trở về kinh thành. Lúc ấy các giáo dân gào thét thảm thương, nước mắt dàn dụa, ào đến thi thể ngài. Người thì lấy khăn thấm máu, có người uống luôn, có người đào lấy chỗ đất có thấm máu vị anh hùng tử đạo. Chỉ còn lại ba tên lính đang thu dọn các gông cọc để mang về. Giáo dân đưa xác ngài xuống thuyền đem về an táng trọng thể. Ban đầu xác ngài được chôn cất tại nhà thờ Phúc Nhạc, sau lại sợ dân chúng lấy mất nên giao cho cho một nhà tư giữ xác ngài trên gác.

Ðức Giám Mục Longer, coi sóc giáo phận Tây Ðàng Ngoài, đã ra lệnh tìm nhân chứng tường thuật lại cuộc tử đạo của Cha Ðạt. Có ba bài tường thuật đầy đủ. Một bài của y sĩ Huyền Trang, một bài của Thầy Tang cùng bị giam tù với ngài, và một của Thầy Benoit Huy. Ngoài ra còn có nhiều nhân chứng kể lại các phép lạ ngài làm. Ông Phêrô Vũ văn Thang có kể lại một phép lạ như sau: "Thằng Ðam, con ông Thanh và cháu của tôi, mắc chứng bệnh đau bụng khủng khiếp không thuốc nào chữa được. Tôi liền đi đến mộ Cha Ðạt đọc 5 Kinh Lạy Cha và 5 Kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho nó uống. Vừa uống xong nó hết đau bụng ngay". Một nhân chứng khác còn thêm rằng: "Tất cả nhà tôi đều tin chắc rằng thằng Ðam được chữa khỏi là do lời bầu cử của Cha Ðạt."

Cha Ðạt đã được Ðức Thánh Cha Leo XIII tôn lên hàng chân phước ngày 7-5-1900 cùng với 63 vị anh hùng tử đạo của ba giáo phận Việt Nam bấy giờ: giáo phận Ðông Ðàng Ngoài, giáo phận Tây Ðàng Ngoài và giáo phận Tây Ðàng Trong.

Đã đọc: 707


Đăng nhập

Nhớ cookie?

Quên mật khẩu
Đăng ký mới

Hình thành viên


TeresaMYNUONG

Bài Mới Đăng
CN 30 TN C: Khiêm tốn, không khinh chê ...
CN 30 TN C: Công chính và khiêm tốn
CN 30 TN C: Cầu nguyện trong khiêm tốn
CN 29 TN C: Nhìn mọi sự bằng góc nhìn ...
Mẹ Mân Côi: Hiệu Quả Kinh Mân Côi
CN 27 TN C: Để Đức Tin Lớn Mạnh
Mẹ Mân Côi: Sẵn sàng đón nhận và can ...
CN 26 TN C: Bệnh vô cảm
CN 26 TN C: Sẵn một vực thẳm
CN 26 TN C: Nhạy bén trước điều tốt - ...

Nghe nhiều tháng 10
8. Điều đó rồi cũng qua đi
CN 4 TN B: Giải thoát sự dữ
Mẹ Mân Côi: Hiệu Quả Kinh Mân Côi
Mùng 2 Tết: Đạo hiếu
CN 29 TN B: Chỗ nhất trên Nước Trời
23. Thánh Augustinô: Chúa ở trong con; còn ...
Mùng 1 Tết: Xin Chúa chúc lành
Lễ GS: Quà tặng Giáng Sinh
Lời kinh tuyệt vời
Mùng 1 Tết: Đừng lo lắng

Đọc nhiều tháng 10
Những niềm vui nhỏ
Ba câu chuyện cuộc đời của Steve Jobs
Sự tích trái sầu riêng
Chuột nhiều vô kể
Sự tích cái chổi
Bài giảng trên núi
Vàng lấy con vua
Nợ như chúa chổm
Lá thư cuối cùng của người lái xe tải
Lầm lẫn mà thôi


Album mới

 CN 31 TN năm C 3

 CN 30 TN năm 3

 CN 29 TN năm C 3


  Dòng Đa Minh Việt Nam
  Vietcatholic
  Kinh Thánh Các Giờ ...
  Gx. Đa Minh
  Dòng Đồng Công
  Công Giáo Việt Nam
  Tuổi mực tím

Trang chủ -|- Thành viên -|- Hướng Dẫn Sử Dụng -|- Tìm Kiếm